Chào mừng các bạn ghé thăm Blog "Một Thời Để Nhớ".

Mời các bạn nghe nhạc

MỜI CÁC BẠN NGHE NHẠC

Người vợ đãm đang

Với giọng điệu hài hước nhưng vẫn ân cần, dịu dàng, Phạm Thành Châu đã “nói quá” lên một đức tính muôn thuở của hầu hết người phụ nữ Việt dù đến bất cứ xứ sở nào là đức tính tiết kiệm, thu vén cho gia đình. Chính vì thế, đọc câu chuyện này, không chỉ có nụ cười, mà người đọc còn có thể thấy chạnh lòng, thông cảm hơn cho người phụ nữ Việt Nam, như một đệ tử cuồng tín của “giáo phái” mua hàng giảm giá.


Ở hải ngoại, ông Việt Nam nào có phước lắm mới có được vợ Việt Nam. Người đàn bà Việt Nam là biểu tượng của người vợ hiền, đảm đang, chung thủy, tiết kiệm... là tấm gương sáng cho tất cả phụ nữ khắp thế giới noi theo. Vợ tôi lại là tấm gương sáng nhất trong các tấm gương sáng đó. Nói vậy để quý vị biết là tôi hạnh phúc, sung sướng đến cỡ nào! Nếu kể ra đây tất cả các đức tính cao quý của vợ tôi, sợ quý vị không có thì giờ đọc, nên tôi xin đơn cử một đức tính mà bà Việt Nam nào cũng có, đó là tính tiết kiệm. 

Nhưng tiết kiệm là gì? 

Là đọc báo mà thấy chợ nào có bất cứ món gì “xeo” (on sale: giảm giá) là chạy đi mua ngay (kẻo hết). Có những ngày chủ nhật, vợ tôi kêu tôi dậy từ sáng sớm, đi giáp vòng các chợ có hàng “xeo”, đến chiều thì vừa đầy chiếc xe van. Tôi phải vác vào, chất đầy nhà, đến độ muốn vào nhà, tôi phải leo qua những bao gạo hiệu con voi, con cá, con chuột, leo qua những thùng nước mắm hiệu một con cá, hai con cua, năm con bạch tuộc, bò qua những thùng dầu bắp, dầu đậu nành, những thùng mì gói, bột, đậu, đường, rồi khăn tắm, khăn trải giường, đồ chùi xoong nồi, kem đánh răng... (dĩ nhiên tất cả đều quá hạn expired date). Nhưng không phải đầy nhà rồi thì ngưng đi mua “xeo” đâu.

Vẫn tiếp tục. Vợ tôi giải thích cho tôi biết “Một bao gạo tiết kiệm được một đô. Một trăm bao, tiết kiệm được bao nhiêu, ông tính đi!”. Tôi làm bộ kinh ngạc “Một trăm đô! Tôi đâu có ngờ. Tưởng chỉ một đô, mà thành trăm đô. Bà coi báo, xem còn chợ nào “xeo” thì nên mua về, để dành. Kinh tế suy thoái, tiết kiệm được đồng nào quý đồng đó”. Vợ tôi khoái lắm nhưng làm vẻ nghiêm trang: “Ông thử đi mượn một đô xem có ai cho mượn không? Phải tiết kiệm từng đồng, để khi cần thì có mà đem ra xài”. 

Chuyện các báo đăng hàng “xeo” thì vợ tôi rành lắm, chợ nào, xa cách mấy vợ tôi cũng biết rõ đường đi lối về (để chỉ đường cho tôi), trừ những chợ mới khai trương, vợ tôi không biết đường, phải hỏi các bà bạn. Với tôi, muốn đến đâu, giở bản đồ ra là biết hết, nhưng tôi đâu có dại. Có biết, tôi cũng lắc đầu, để khỏi chở bả đi, hơn nữa, phải để bả hỏi  bạn bè rồi bả chỉ đường, bả mới lên mặt được! Thương vợ thì phải làm sao cho vợ lúc nào cũng giỏi hơn mình, thông thái hơn mình. Sau đây là một chuyện điển hình về một buổi đi chợ mua hàng “xeo” của vợ tôi. Tôi kể trên báo này cho quý vị nghe mà không sợ bị vợ đánh đập vì vợ tôi, hễ cầm đến tờ báo là tìm mấy trang quảng cáo có hàng “xeo”, cắt cúp bon (coupon: phiếu giảm giá) để dành, ngoài mục hàng “xeo”, báo có đăng tin trời sụp bả cũng không “ke” (care: quan tâm đến).

Tiểu bang Virginia, nơi tôi ở, nếu kể cả các vùng phụ cận như thủ đô Washington DC, tiểu bang Maryland thì có khoảng bốn chục nghìn người Việt nhưng không biết cơ man nào là chợ Á Đông, là những chợ bán đủ thứ, kể cả những món mà chợ Mỹ không có như mắm ruốc, mắm “bồ hóc” (brohoc), mắm nêm... là những thứ mà mở ra thì người Mỹ bỏ chạy, tưởng là bom bẩn của bọn khủng bố. Kể ra, có một chợ Á Đông gần nhà cũng tiện, cần gì, chỉ lái xe đi mươi phút là có ngay.

Nói là “chợ” nhưng sự thực là một tiệm chạp phô lớn, kiểu siêu thị nhỏ ở Việt Nam, do một gia đình, thường là người Tàu Chợ Lớn, đứng ra kinh doanh. Khoảng mấy năm trở lại đây, thấy dễ ăn, người Tàu (Đài Loan, Trung Quốc), người Đại Hàn (Nam Hàn) nhảy ra lập công ty, mở những chợ đồ sộ, gì cũng có, giá rất rẻ để thu hút khách hàng và để “lấy thịt đè người”, cố giết chết những tiệm chạp phô của người Á Đông. Quả nhiên, các tiệm chạp phô này chết dần, như cây thiếu nước, héo tàn, sống lay lắt hoặc dẹp tiệm. 

Hiện nay thì chợ Đại Hàn bành trướng khắp nơi, thu hút chẳng những khách Á Châu như Lào, Thái, Miên và cả người Ấn Độ, Phi Châu, Nam Mỹ vì giá rẻ hơn các chợ Mỹ, tuy phẩm chất hàng hóa thường quá tệ. Nhưng những di dân, rất dễ tính, miễn rẻ là được.

Nói chuyện đi chợ xứ Mỹ này thì bà nào cũng giống nhau. Quý bà sai quý ông đi chợ về là bị quý bà đem cái “rì xít” (receipt: phiếu tính tiền) ra đọc, nếu thấy bị ăn gian thì đay nghiến cả tháng  trời, vì các ông mua gì cũng không bao giờ nhìn đến cái “rì xít”. Với các bà thì đừng hòng. Bà nào vào chợ, bốc món nào bỏ vô xe đẩy là nhớ cái giá như gõ vào máy tính trong đầu. Đi một vòng, ra chỗ trả tiền, các bà đã tính nhẩm ra ngay tổng số tiền phải trả. Khi người ta chọt giá món hàng vào máy tính tiền là các bà đứng nhìn không rời mắt, thấy khác lạ là chặn lại ngay, đừng hòng ăn gian. 

Chưa xong đâu, đi chợ về, các bà còn lục mấy cái “rì xít” cũ ra để so sánh giá cả từng món hàng. Chợ nào bán mắc hơn, chỉ vài “xen” (cent: xu) là các bà nhảy nhỏm lên như bị kim châm vào mông, rồi gọi ngay đến bà bạn còm ròm và khuyến cáo.

Tôi lái xe đến đúng chợ Mạt Lo (Martlow) nhưng làm bộ không thấy cái bảng hiệu nên cứ chạy thẳng để vợ khỏi nghi và để cho bả “ta đây” biết đường. Bả la lên “Yêu thơn! Yêu thơn! (U-turn)”. Tôi làm như phục tài bả, ngoan ngoãn trở đầu xe. Xe vào sân chợ, vừa ngừng là vợ tôi phóc xuống, ra lệnh: “Tôi một xe (xe đẩy). Ông một xe”. Tôi hiểu ngay. Vì trong quảng cáo, có những món hàng “xeo” bị giới hạn số lượng cho mỗi khách hàng. Tôi mua riêng, vợ tôi mua riêng, như vậy sẽ mua được gấp đôi.

Vợ tôi cầm tờ quảng cáo hàng “xeo” đi vào chợ, vừa đọc vừa dáo dác tìm. Tôi đẩy xe theo sau. Hễ bả bỏ vào xe đẩy của bả hai chai nước mắm hiệu con chuột thì bỏ vào xe tôi hai chai, xe bả năm thùng mì ăn liền hiệu con cóc thì xe tôi cũng có năm thùng, mười hộp trứng gà (ung!) thì tôi cũng có như thế... Đến chỗ bán gạo xeo, chúng tôi phải chờ. Một dọc, cả chục bà đang chờ đến lượt để hì hục vác gạo bỏ lên xe đẩy. Hầu hết là các bà Việt Nam. Bà nào cũng có một ông chồng với một xe đẩy riêng. Nếu dịp khác, các bà sẽ chào hỏi, chuyện trò rôm rả, nhưng lúc này thì tinh thần các bà rất căng thẳng, mắt đăm đăm nhìn đống gạo “xeo” đang vơi đi với tốc độ chóng mặt, khiến các bà cũng chóng mặt theo.

Nếu ở Việt Nam, các bà đã xốc tới, huých người này, lấn người kia để đến gần đống gạo, nhưng vì ở Mỹ nên các bà đành hậm hực nhích từng bước, lòng lo lắng, không biết đến lượt mình có còn gạo không?. May sao, đến lượt chúng tôi, gạo vẫn còn nhiều. Chúng tôi đẩy xe ra quầy tính tiền. Biết tôi vô sản, vợ tôi lén nhét cho tôi tờ trăm đô và dặn nhỏ, không cho cô tính tiền nghe, sợ bị làm khó dễ “Mua xong, đưa lại tiền thối cho tôi”.

Vì gạo mua “xeo” đó hiệu Hoàng Gia (Royal Rice) là gạo rất đặc biệt (theo như quảng cáo), rất quý hiếm nên vợ tôi nảy ra sáng kiến. Mua xong chúng tôi ra xe nhưng vợ tôi không cho tôi nổ máy xe. Ngồi một lúc, bả ra dấu, chúng tôi bước xuống, vào chợ lần nữa, mỗi người một chiếc xe đẩy, nhưng bả bảo phải đi cách xa ra để người ta không biết, tưởng mình là khách mới vào. Bả đi thẳng đến hàng gạo và chúng tôi sắp hàng nối đuôi với những người khác. Nhưng vừa đến lượt thì gạo hết. Vợ tôi nổi xung, đến ban quản lý khiếu nại. Bả to tiếng bằng tiếng Anh, ban quản lý vì kém sinh ngữ, không biết bả nói gì nhưng hiểu ngay, vội đưa bả vào kho chứa gạo. Một cái kho mỗi bề ít ra cũng một trăm mét, chất thứ gạo Hoàng Gia đó tới nóc.

Ông quản lý hỏi vợ tôi có cần thì ông ta cho xe tải chở đến nhà, mấy trăm bao cũng có, đã bán giá “xeo” lại được “đít kao” (discount: bớt giá) nữa. Vợ tôi cười hỉ hả, chỉ nhận có hai chục bao. Công nhân chất gạo vào sau xe cho chúng tôi. Bữa đó, chiếc xe van đời Bảo Đại của chúng tôi bị một phen quá tải. Nó xịt khói tùm lum, gầm rú như xe tăng, mà chạy như xe bò, nhưng cũng lết được về nhà. Tôi cũng bị một trận quá tải vì vác gạo vô nhà, muốn xỉu vì kiệt sức nhưng tôi vẫn vui vẻ vì đã giúp vợ thực hành tiết kiệm cho gia đình.

Về nhà vợ tôi đem cái “rì xít” ra tính toán và hí hửng bảo tôi: “Rẻ được hai mươi đô”. Tôi định nhắc bả nhớ là lái xe đi, về gần hai trăm miles (dặm), đổ hai lần xăng, mỗi lần bốn mươi đô, nhưng sợ bả giận, tôi làm thinh. 

Vợ tôi bắt phải để thứ gạo Hoàng Gia đó vào một chỗ riêng. Tuần sau là đưa ông Táo về trời rồi nên vợ tôi gọi điện thoại đến các bà bạn, hỏi ai chưa mua được gạo Hoàng Gia thì bả tặng một bao: “Ăn lấy thảo, tiền bạc chẳng bao nhiêu. Chị trả tiền em giận chị”. Tôi có nhiệm vụ chở thứ gạo Hoàng Gia đó đến nhà quý bà. Các ông chồng của quý bà ra vác vào. Ông nào cũng ngoan ngoãn, hiền lành như tôi nhưng chúng tôi biết nhau quá rõ. Trông cù lần, con gà chết như thế chứ ông nào cũng thủ đắc vài con mèo để rảnh rỗi đi ngắm mèo giải sầu. Dĩ nhiên là những con mèo cô đơn kiểu như cô Trít của tôi. Tôi cũng nhân dịp vợ sai chở gạo Hoàng Gia tặng cô Trít, trên đường đi, tôi gọi cho vợ tôi báo là dọc đường có “tai nạn xe khủng khiếp quá, đường bị kẹt, cả giờ sau chưa chắc đã đi được!”. Vậy là tôi đến “với” cô Trít bạn vợ tôi, nhưng đang hồi xuân mà chưa chồng, mát mẻ, tình tứ lắm, cả giờ mà vợ tôi không nghi ngờ.

Chiều hăm ba tháng chạp âm lịch, là ngày đưa ông Táo về trời. Tôi đi làm về sớm. Vợ tôi gọi điện thoại, bảo mở bao gạo Hoàng Gia ra, nấu nồi cơm để bả về cúng đưa ông Táo.

Tôi mở bao gạo, lấy cái lon nhựa, đong ba lon vào nồi cơm điện như vợ dặn rồi bưng nồi đến vòi nước, mở nước để vo gạo. Nước vừa ngập gạo thì không biết đâu ra những con vật bé tí, nhỏ hơn hạt mè, đen thùi nổi lên, ngọ nguậy, dính chùm nhau, đen kịt mặt nước. Ba lon gạo Hoàng Gia, e có đến một lon những con mọt đen đó. Tôi dùng tay gom được một nạm đầy mọt, bỏ thùng rác rồi quậy gạo, chúng lại nổi lên. Tôi mở nước, nghiêng nồi cho chúng trôi ra với nước. Làm vài chục lần thì chúng trôi ra gần hết. Tôi bưng nồi cơm để vào cái nồi lớn, đậy nắp, mở điện lên nấu. Bỗng  thấy nhột ở cổ, tôi đưa tay lên gãi và vuốt. Trong tay tôi có mấy con mọt đen. Tôi đến chỗ bao gạo Hoàng Gia đã mở thì thấy chúng bò ra, bám đen cái bao ni lông trắng. Nhiều con cất cánh bay lên. Tôi nhìn lên tường. Bốn bức tường quanh nhà đen nghịt những sinh vật bé tí đó. Tôi lấy dao rạch tiếp mười mấy bao gạo Hoàng Gia còn lại, mở banh ra. Bao nào cũng đầy mọt đen. Chúng bò ra, bay lên, giống như ta đốt giấy, những tro giấy màu đen bay lên theo ngọn lửa.

Tôi ra hiên nhà ngồi gãi và bắt những con mọt đen đang bò lung tung trong áo, trên cổ, đặt chúng lên bàn tay, ngắm chúng để chờ vợ tôi về



Phạm Thành Châu


Một góc khu mua bán của người Việt tại Quận Cam, California (Hoa Kỳ).